Công trình chào mừng 30 năm thành lập Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (1988 – 2018)

Friday - 11/03/2022 11:09
Các vấn đề về phát triển bền vững, thách thức ở Việt Nam và định hướng Kế hoạch hành động quốc gia đến năm 2030

Các vấn đề về phát triển bền vững, thách thức ở Việt Nam và định hướng Kế hoạch hành động quốc gia đến năm 2030

Lê Trình, PGS.TS, Lê Thạc Cán, GS,TS 
                               Viện Khoa học Môi trường và Phát triển

Chuyên đề trong tập sách
“MÔI TRƯỜNG, TĂNG TRƯỞNG XANH, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU”

1. QUAN NIỆM VÀ THƯỚC ĐO VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Từ thế kỷ 20, trước sức ép do gia tăng nhanh dân số, nhu cầu tiêu thụ và xung đột vũ trang, phát triển mạnh mẽ kinh tế, quốc phòng, khai thác tài nguyên thiên nhiên đã trở thành xu thế không thể đảo ngược ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hậu quả là trái đất đã, đang và sẽ tiếp tục nhận khối lượng lớn và ngày càng gia tăng các loại chất thải từ sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, giao thông vận tải…. Chất thải là nguồn gây ô nhiễm môi trường dẫn tới sự suy giảm chất lượng môi trường, tác hại sức khỏe con người và đời sống sinh vật.
Nhiều hoạt động không tạo ra chất thải đáng kể như cải tạo đất, phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện, khai thác rừng, khai thác thủy sản, nhưng cũng trực tiếp tác hại đến môi trường tự nhiên dẫn tới suy giảm tài nguyên sinh vật, đa dạng sinh học, thay đổi chế độ thuỷ văn, xói mòn đất, axit hóa đất, gia tăng hiệu ứng biến đổi khí hậu...
Khi chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên thay đổi theo chiều hướng xấu sẽ dẫn tới tác động xấu đến phát triển kinh tế - xã hội (KT–XH). Suy thoái môi trường đang và sẽ là lực cản đối với phát triển KT-XH không chỉ ở một vài quốc gia mà còn cả toàn cầu.
Các quốc gia, các vùng có nền kinh tế càng phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên thì càng dễ bị tác động do suy thoái môi trường. Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát triển có nền kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, do vậy việc gắn kết phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trường là nhu cầu sống còn.
1.1.  Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và môi trường
1.1.1. Tác động do phát triển công nghiệp, giao thông, đô thị đến môi trường

Phát triển mạnh các ngành công nghiệp hóa dầu, luyện kim, xi măng, cơ khí, năng lượng, khai khoáng và giao thông bộ, thuỷ, hàng không tạo cho các quốc gia Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga... có tiềm năng kinh tế, quốc phòng hùng mạnh chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ 20 và hiện nay đã tạo ra các hậu quả nghiêm trọng khôn tiền khoáng hậu đối với môi trường với biểu hiện rõ nhất là gia tăng ô nhiễm, suy giảm chất lượng môi trường.
Việc sử dụng hàng ngàn triệu tấn nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ) hàng năm trong công nghiệp và giao thông đã tạo ra một khối lượng khổng lồ các chất gây ô nhiễm không khí như bụi, SOx, NOx, CO, CO, và hydrocacbon (THC).
Ngoài ra khí thải từ nhiều ngành công nghiệp còn chứa hàm lượng cao các chất độc khác như HF, Pb, Hg, H2S... Các chất gây ô nhiễm không khí nêu trên có độc tính, tính ôxy hóa, tính ăn mòn cao. Đây là nguồn gây tác hại đến sức khỏe con người, độ bền vật liệu và gây hại đời sống sinh vật.
Ô nhiễm không khí đã tạo ra các vấn đề môi trường có tính toàn cầu ngày càng nghiêm trọng. Đó là “hiệu ứng nhà kính” (do gia tăng nồng độ CO2 trong không khí); “mưa axit” (do gia tăng nồng độ SO2, NOx trong không khí); “hiệu ứng mỏng tầng ozon” (do gia tăng nồng độ các chất cloflocacbon - CFC trong không khí). Theo nhiều tài liệu khoa học: 200 năm trước nồng độ CO2 trong không khí vào chỉ khoảng 200 ppm, nay đã tăng tới 400 ppm. Hậu quả của “hiệu ứng nhà kính” làm trái đất nóng hơn, dẫn tới gây biến đổi khí hậu với các biểu hiện: tan băng tuyết ở 2 cực và núi cao làm gia tăng mực nước biển; gia tăng tai biến thiên nhiên (bão, lũ, nóng, hạn, xâm nhập mặn…)…gây tác động cực kỳ nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống của con người, đời sống sinh vật.
Nước thải công nghiệp và sinh hoạt là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước (sông, hồ, nước dưới đất và đại dương). Nước thải công nghiệp ngoài hàm lượng cao của các chất thải rắn, chất hữu cơ (công nghiệp thực phẩm, hóa dầu...) còn chứa hàm lượng đáng kể các chất độc như kim loại nặng (công nghiệp hóa dầu, luyện kim, pin acquy, nhuộm, thuộc da), hydrocacbon, phenol, dầu mỡ (công nghiệp hóa dầu, cơ khí, hóa chất hữu cơ, dệt nhuộm giấy...). Với hàng tỷ mét khối nước thải do các ngành công nghiệp hàng năm đổ vào môi trường, ô nhiễm nước nguồn, nước sông hồ, nước biển, nước dưới đất  trên thế giới đã và đang bị ô nhiễm.
Theo Chương trình đánh giá môi trường nước của UNESCO1 các chất gây ô nhiễm nước phổ biến nhất hiện nay là vi sinh vật gây bệnh, chất dinh dưỡng (chủ yếu là phospho và nitơ), vật liệu tiêu thụ oxy (chất hữu cơ không bền), kim loại nặng và chất hữu cơ bền vững và nhiệt độ. Hơn 80% nước thải ở các nước đang phát triển không được xử lý, gây ô nhiễm các con sông, hồ và các khu vực ven biển. Trên toàn cầu, vấn đề chất lượng nước phổ biến nhất là sự phú dưỡng các sông hồ, biển. Nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng gây ô nhiễm nặng (như thuộc da, giấy, xi măng, thép và hóa chất) - đang chuyển từ các nước có thu nhập cao sang các nền kinh tế thị trường mới nổi. Mặc dù chất lượng nước có sự cải thiện ở một số vùng, ô nhiễm sông hồ, đại dương, nước dưới đất đang gia tăng trên toàn cầu.
Chất thải rắn công nghiệp, đô thị cũng là nguồn quan trọng gây ô nhiễm môi trường. Hàng năm trên thế giới hàng tỷ tấn chất thải rắn trong đó có tỷ lệ cao chất thải rắn nguy hại được đưa vào môi trường từ các ngành công nghiệp luyện kim, hóa dầu, giấy, năng lượng, hóa chất, cơ khí, chế biến thực phẩm, dệt nhuộm. Đây là nguồn gây ô nhiễm đất, nước sông hồ, biển, nước dưới đất và không khí lâu dài và khó xử lý, ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người và đời  sống sinh vật.
1.1.2. Tác động của phát triển nông nghiệp đến môi trường
Cuộc cách mạng trong nông nghiệp đã mang đến cho nhân loại nguồn nông phẩm có sản lượng và năng suất ngày càng cao.
Tuy nhiên nông nghiệp hiện đại cũng tạo ra các tác động xấu đến các hệ sinh thái tự nhiên. Tình trạng phá rừng để mở rộng diện tích canh tác, đặc biệt ở các nước Đông Nam Á, Nam Á, Mỹ La tinh, châu Phi đã và đang là nguy cơ lớn đối với tài nguyên sinh vật, đa dạng sinh học, môi trường tự nhiên và xã hội.
Trong những năm 1980 - 90 thế kỷ 20 mỗi năm thế giới mất đi khoảng 17 triệu ha rừng nhiệt đới do khai thác gỗ, củi và mở rộng diện tích đất nông nghiệp, đất ở. Trong giai đoạn này tốc độ mất rừng cao nhất ở châu Á (1,2 %/năm), Mỹ La tinh (0,9%/ năm) và châu Phi (0,8%). Từ năm 2000 đến năm 2010, khoảng 50.000 km2 rừng đã tiếp tục bị mất. Theo World Wildlife Federation (WWF, 2015)2 trên toàn cầu đa dạng sinh học (ĐDSH) về số loài đã giảm 27% trong 3 thập kỷ qua do mất nơi cư trú, bị đánh bắt và ô nhiễm.  ĐDSH không chỉ có giá trị về tài nguyên sinh vật mà có giá trị KT-XH và môi trường cực kỳ to lớn vì vậy suy thoái ĐDSH là không thể được bù đắp bằng tiền bạc.
Mất rừng và thảm thực vật còn dẫn đến sa mạc hóa, thoái hóa đất. Khoảng 25% diện tích đất toàn cầu đang bị suy thoái, tập trung ở châu Phi, Đông Nam Á, Mỹ La tinh và Nam Trung Quốc. Suy thoái đất ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của khoảng 1,5 tỷ người. Mất rừng và thảm thực vật còn làm gia tăng cường độ lũ lụt, ảnh hưởng đến điều tiết khí hậu và làm trầm trọng thêm hiệu ứng nhà kính. Do vậy mất rừng đang và sẽ là vấn đề môi trường có tính toàn cầu
Để gia tăng năng suất và sản lượng nông phẩm nền nông nghiệp hiện đại cần có công trình thuỷ lợi nhằm cấp nước, tiêu nước và cần có một lượng lớn phân hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV). Việc xây dựng và hoạt động các công trình thuỷ lợi và việc sử dụng không hợp lý phân bón và hóa chất nông nghiệp đã và đang tạo ra các vấn đề môi trường nghiêm trọng ở nhiều vùng trên thế giới. Trên toàn cầu: sản lượng phân hóa học vào năm 2000 chỉ 145 triệu tấn đến năm 2014 tăng đến 220 triệu tấn; sản lượng hóa chất BVTV năm 1970 khoảng 1,5 triệu tấn đến năm 2000 tăng đến trên 3,5 triệu tấn3. Với sự tăng cường sử dụng các loại phân bón hoá học, các hoá chất BVTV, nhất là các hoá chất có độ bền vững và độc tính cao, thì nguy cơ ô nhiễm các thành phần môi trường (đất, nước, không khí, biển, sinh vật ...) sẽ ngày càng tăng lên, đe doạ chính sự phát triển bền vững của sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, bảo tồn đa dạng sinh học và sức khỏe của con người.
1.1.3.  Gia tăng dân số và môi trường
Gia tăng nhanh chóng dân số đã và đang gây tác động tiêu cực đến môi trường. Vào năm 1810 trên thế giới chỉ có 1,0 tỷ người, đến năm 1927 mới đạt 2,0 tỷ người; đến 1974 đạt đến 4,0 tỷ người; năm 1989 đạt 6,78 tỷ người và năm 2018 lên trên 7,7 tỷ người (tăng trên 1,9 lần sau 44 năm) và có thể đến 10 tỷ người vào năm 2050.
Gia tăng dân số dẫn tới gia tăng nhu cầu về nông phẩm, năng lượng, nước, phương tiện giao thông và các dịch vụ khác, dẫn đến thúc đẩy khai thác tài nguyên gây suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên, gia tăng  sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Nhu cầu của con người ngày càng tăng, do đó nếu chỉ tăng 1% dân số, tăng trưởng kinh tế phải đạt 2 - 3 % mới thoả mãn việc gia tăng nhu cầu tiêu thụ. Hậu quả của việc gia tăng sản xuất sẽ là suy kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, tăng dân số còn trực tiếp gây ô nhiễm môi trường do gia tăng chất thải sinh hoạt chứa hàm lượng cao chất hữu cơ, dinh dưỡng và vi trùng, mầm bệnh. Mỗi ngày môi trường toàn cầu tiếp nhận trên 1,0 tỉ mét khối nước thải sinh hoạt chứa trên 0,3 triệu tấn nhu cầu oxy sinh hóa (BOD - đơn vị tính ô nhiễm do chất thải hữu cơ không bền). Tải lượng ô nhiễm do chất thải sinh hoạt tăng tỷ lệ thuận với gia tăng dân số. Đây là nguồn ô nhiễm có tính phổ biến và nghiêm trọng đối với môi trường toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Cùng với phát triển kinh tế, dân số thuộc tầng lớp trung lưu trong xã hội cũng sẽ gia tăng. Dự báo số người tiêu dùng từ 10-100 đô la một ngày sẽ tăng đến 5 tỷ người vào năm 2030, trong đó có 2/3 sống tại khu vực châu Á. Sự thay đổi cơ cấu dân số này sẽ dẫn đến gia tăng nhu cầu tiêu dùng: từ năm 2010 đến 2030, nhu cầu năng lượng tăng 33%, nhu cầu lương thực tăng 30% và nhu cầu nước sạch tăng 41%. Kết quả là tài nguyên tiếp tục bị khai thác cạn kiệt. Đáng lưu ý: theo báo cáo của nhiều Tổ chức quốc tế: cùng với tài nguyên rừng, đa dạng sinh học tài nguyên nước trên Thế giới ngày càng cạn kiệt: nhiều quốc gia không có đủ nguồn nước để phát triển nông nghiệp, sinh hoạt; 1,1 tỷ dân trên toàn cầu không được cung cấp nước sạch. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc (2018)4: hiện nay trên toàn cầu: khoảng 3,6 tỷ người đang bị thiếu nước ít nhất 1 tháng trong năm, đến 2050 con số này sẽ tăng đến 6,0 tỷ người.
1.1.4. Các vấn đề môi trường toàn cầu
Tóm lại, do gia tăng nhanh dân số và các hoạt động về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông và dịch vụ, Thế giới đang đứng trước các vấn đề môi trường toàn cầu sau:
-  Suy giảm rừng và tài nguyên sinh vật, đa dạng sinh học đặc biệt là ở vùng rừng nhiệt đới do phá hoại nơi cư trú, săn bắt quá mức và ô nhiễm môi trường.
-  Ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm các nguồn nước sông hồ, đại dương, nước dưới đất; không khí và đất đai do các chất thải công nghiệp, giao thông và sinh hoạt.
-  Biến đổi khí hậu do hiện tượng trái đất nóng lên vì hiệu ứng nhà kính (do gia năng nồng độ các khí nhà kính) và các nguyên nhân khác.
-  Mưa axit do tăng nồng độ các khí SO2, NOx trong không khí.
-  Suy giảm tầng ôzon do nồng độ cao các khí CFC trong không khí.
-  Sa mạc hóa, thoái hóa đất do mất thảm thực vật và suy giảm tầng nước dưới đất.
Các vấn đề môi trường toàn cầu này đã, đang và sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, đời sống sinh vật, suy giảm tài nguyên thiên nhiên, dẫn tới cản trở phát triển, gây đói nghèo trong nhiều khu vực ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh, thậm chí gây tranh chấp về tài nguyên dẫn tới xung đột về chính trị và quân sự.
1.2. Phát triển bền vững: sự lựa chọn của nhân loại
1.2.1.  Quan niệm, nguyên tắc và nội dung phát triển bền vững
Định nghĩa phát triển bền vững:
Ngày nay trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế tất cả các nước, kể cả các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển, đều phải đi theo con đường công nghiệp hóa và kinh tế thị trường. Tiến bộ khoa học và công nghệ, bùng nổ dân số, phân hóa về thu nhập dẫn đến  gia tăng sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên và can thiệp càng sâu vào môi trường tự nhiên. Có thể nói rằng phần lớn các vấn đề suy thoái môi trường đều bắt nguồn từ hoạt động của con người. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế, nhưng phải giữ cho phát triển sao cho các chức năng cơ bản của môi trường không bị tổn thương: môi trường tạo cho con người một không gian sống với phạm vi và chất lượng phù hợp; cung cấp cho con người các tài nguyên cần thiết để sản xuất, sinh sống; và tiếp nhậnphân hủy các phế thải để không gây suy giảm chất lượng môi trường5. Đó chính là phát triển bền vững.
Thuật ngữ "Phát triển bền vững" được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 qua Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) . Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai"6.
Ở nước ta phát triển bền vững đã được tiếp nhận như là định hướng quan trọng trong phát triển KT-XH. Luật BVMT (2014) định nghĩa “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Nguyên tắc phát triển bền vững:
Năm 1992, tại Rio de Janeiro (Cộng hòa Liên bang Brasil), các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững họp tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) đã tổng kết lại Kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua.
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã đề ra 9 nguyên tắc:
1.  Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
2.  Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
3.  Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
4.  Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
5.  Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
6.  Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
7.  Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
8.  Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ.
9.  Xây dựng một liên minh toàn cầu.
1.2.2.  Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững
Ngày 25 /9/2015 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 (Agenda 2030) vì sự phát triển bền vững (Transforming our World: the 2030 Agenda for Sustainable Development)7. Đây là một văn kiện lịch sử, là kế hoạch hành động vì con người, hành tinh và sự thịnh vượng, giúp tăng cường hoà bình trên toàn thế giới, xoá đói giảm nghèo dưới mọi hình thức và mọi khía cạnh. Đây là yêu cầu bức thiết cho sự phát triển bền vững. Năm 2017 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Agenda 20308 (xem mục 7.2.3.2 bên dưới).
Tầm nhìn và các nguyên tắc
Agenda 2030 vì sự phát triển bền vững có độ bao phủ chính sách phổ quát, rộng lớn, toàn diện, vì lợi ích của người dân trên toàn thế giới, cho các thế hệ hôm nay và ngày mai. Chương trình nghị sự đã đề ra tầm nhìn chiến lược mới, phản ánh khát vọng chung của toàn nhân loại được sống trong một thế giới hoà bình, an toàn, công bằng, tạo khuôn khổ và định hướng mới cho mọi quốc gia trong việc ứng phó các thách thức chung về kinh tế, xã hội và môi trường
Các định hướng phát triển bền vững của Agenda 2030    
Các định hướng chung về phát triển bền vững trong 15 năm tới ở các lĩnh vực quan trọng về con người và xã hội được xác định như sau:
- Về con người: Chấm dứt nghèo đói dưới mọi hình thức và mọi khía cạnh, phát huy tiềm năng, nhân phẩm của con người và tăng cường bình đẳng.
- Về hành tinh: Bảo vệ hành tinh khỏi sự suy thoái, thông qua việc thúc đẩy tiêu dùng và sản xuất bền vững, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và có những hành động cần thiết trong ứng phó với biến đổi khí hậu, từ đó có thể đáp ứng những nhu cầu cho hiện tại và các thế hệ trong tương lai.
- Về thịnh vượng: Đảm bảo tất cả mọi người sẽ được sống một cuộc sống đầy đủ và thịnh vượng, sự phát triển của kinh tế - xã hội và công nghệ sẽ hài hoà với môi trường tự nhiên.
- Về hoà bình: Thúc đẩy xã hội hoà bình, công bằng và rộng mở, không còn sợ hãi và bạo lực. Không thể phát triển bền vững nếu không có hoà bình, và ngược lại nếu không có hoà bình thì không thể phát triển bền vững.
- Về hợp tác: Huy động các phương tiện cần thiết để thực hiện Chương trình nghị sự này thông qua quan hệ đối tác toàn cầu mới vì sự phát triển bền vững, dựa trên tinh thần đoàn kết, với sự tham gia của tất cả các quốc gia, tất cả các bên liên quan và tất cả mọi người.
Các mục tiêu phát triển bền vững của Agenda 2030     
Agenda 2030 đã nêu 17 mục tiêu chung phát triển bền vững và 169 mục tiêu cụ thể nhằm đảm bảo cho quá trình hội nhập và liên kết giữa các quốc gia, vì lợi ích chung của mọi người dân, cho thế hệ hôm nay và ngày mai. 17 mục tiêu chung được nêu ở mục 3.2 dưới đây.
17 mục tiêu này đã được đưa vào Kế hoạch Hành động Quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 20178.

Chương trình nghị sự mới có hiệu lực vào ngày 01/01/2016 và mang tính định hướng chiến lược trong 15 năm tiếp theo.

1.3. Các thước đo đánh giá phát triển bền vững

Đánh giá tính bền vững của sự phát triển của một xã hội là việc hết sức khó khăn vì phát triển liên quan đến nhiều mặt của xã hội. Sự bền vững về phát triển của một xã hội có thể được đánh giá bằng những chỉ thị (indicator), chỉ số (index) nhất định trên ba phương diện: kinh tế, xã hội và môi trường và các chỉ số tổng hợp cả 3 phương diện5,9 .

1.3.1. Đánh giá bền vững về kinh tế
         Tính bền vững về kinh tế có thể được thể hiện qua các chỉ số về phát triển kinh tế quen thuộc dưới đây:
 - Tổng sản phẩm trong nước, GDP (Gross Domestic Product) là tổng sản phẩm nội địa tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong phạm vi lãnh thổ hay quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
-   Tổng thu nhập quốc gia GNI (Gross National Income)
-  GDP hay GNI bình quân đầu người (GDP/người.năm hoặc GNI/người.năm)
-   Tăng trưởng của GDP (GDP growth); Cơ cấu GDP.
-   Sức mua tương đương (PPP) và PPP/người.năm
 

Hộp 1: Phân loại các quốc gia dựa vào GDP/người/năm (theo Ngân hàng Thế giới - WB)
- Quốc gia có thu nhập thấp (Low Income): <935USD
- Quốc gia có thu nhập trung bình thấp (Lower Middle Income): 936-3.705USD
- Quốc gia có thu nhập trung bình cao (Upper Middle Income): 3.706-11.455USD
- Quốc gia có thu nhập cao (High Income): ³11.445USD

 
111
 
14
Hình 1: Bản đồ các quốc gia trên thế giới theo GDP/người (2017)
Nguồn: International Money Fund (Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF), 201810.

Một quốc gia bền vững về mặt kinh tế phải đạt yêu cầu sau:
(i)  Có tốc độ tăng trưởng GDP khá và ổn định; có GDP/người, GNI/người hoặc PPP/người cao.
(ii)  Nếu tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP/người, GNI/người hoặc PPP/người thấp thì chưa đạt tiêu chí bền vững.
(iii)  Có cơ cấu GDP lành mạnh nhằm đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn định lâu dài.
Trong phạm vi quốc gia sự đánh giá tính bền vững về kinh tế của một tỉnh/thành phố cũng có thể dựa vào các chỉ tiêu nói trên (thường được gọi là GRDP và GRDP/người). 

Hộp 2: So sánh PPP/người  (2018) và GDP/người (2017) của Việt Nam và một số quốc gia; đơn vị: USD/người (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF)

Quốc gia

PPP/người (2018)

GDP (Nominal)/người (2017)

Các quốc gia Đông Nam Á

Bruney

77.699 (thứ 4/187 quốc gia, vùng)

29.712 (28/188)

Singapore

93.678 (8/187)

57.713 (8/188)

Malaysia

30.430 (46/187)

9.813 (67/188)

Thái Lan

18.374 (72/187)

6.591(84/188)

Indonesia

13.121 (118/187)

3.876 (115/188)

Lào

7.914 (120/187)

2.542 (131/188)

Philippines

8.776 (121/187)

2.976 (126/188)

Việt Nam

7.378 (124/187)

2.354 (133/188)

Myanmar

6.846 (128/187)

1.2764 (156/188)

Đông Timor      

4.936 (136/187)    

2.104 (136/188)

Campuchia

4.300 (141/187)      

1.390 (154/188)

Một số quốc gia khác

Luxemburg

 112.714 (2/187)

105.803 (1/188)

Mỹ

61.687 (11/187)

59.501 (7/188)

Đức

52.045 (17/187)

44.500 (17/188)

Nhật Bản

44.246 (29/187)

38.440 (23/188)

Hàn Quốc

41.173 (31/187)

29.891 (27/188)

Ba Lan

30.827 (44/187)

13.833 (56/188)

Nga

28.918 (51/187)

10.608 (63/188)

Trung Quốc

17.943 (75/187)

8.642 (72/188)

Ấn Độ

7.750 (122/187)

1.983 (140/188)

Belarus

19.198 (70/187)

5.760 (89/188)

Uzbekistan

7.446 (123/187)

1.491 (149/188)

Trung Phi

715 (187/187)

387 (185/188)

Nguồn: International Money Fund – IMF, 201810

1.3.2.  Đánh giá bền vững về xã hội

Tính bền vững về phát triển xã hội của các quốc gia cũng thường được đánh giá qua một số tiêu chí như: chỉ số phát triển con người (Human Development Index, HDI); hệ số bình đẳng thu nhập; các tiêu chí về giáo dục, dịch vụ y tế, hoạt động văn hóa.

Chỉ số phát triển con người

Năm 1990 Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc đưa ra “Chỉ số Phát triển về con người” (Human Development Index – HDI). Chỉ số này tập hợp 3 độ đo về mức phát triển của con người vào một số đo chung gọi là HDI.
HDI là thước đo tổng hợp phản ánh sự phát triển của con người trên các phương diện thu nhập (thể hiện qua tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người), tri thức (thể hiện qua chỉ số học vấn) và sức khỏe (thể hiện qua tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh).
HDI có giá trị từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 có nghĩa là mức độ phát triển con người càng cao, trái lại càng gần 0 nghĩa là mức độ phát triển con người càng thấp. HDI có ưu điểm là đã tập hợp nhiều độ đo khác nhau vào một chỉ số chung giúp cho sự so sánh một cách tổ hợp một số mặt của sự phát triển. Dựa vào HDI có thể nhận ra 1 quốc gia nào đó có mức độ phát triển bền vững rất cao, cao hay trung bình hay thấp, không phân biệt quốc gia đó theo hệ thống kinh tế, chính trị nào.
Theo số liệu về HDI của Liên hợp quốc, hiện nay các nước phát triển ở Bắc Âu, Singapore, Mỹ, Canada, Tây Âu, Austalia, Hàn Quốc, Nhật Bản… là các nước có mức độ phát triển con người thuộc nhóm rất cao; phần lớn các nước Đông Âu (Nga, Belarus, Serbia, Ba Lan, Croatia…), phần lớn các quốc gia Mỹ Latin; một số quốc gia Đông Nam Á (Malaysia, Thái Lan), một số nước châu Phi (Ai Cập, Nam Phi, Algeria):  có mức độ phát triển con người thuộc nhóm cao; Việt Nam và nhiều nước châu Á,  một số nước châu Phi: có mức độ phát triển con người thuộc nhóm trung bình; phần lớn các quốc gia Đông Phi, Tây Phi, một số nước Tây và Nam Á có mức độ phát triển con người thuộc nhóm thấp. 

Hộp 3: So sánh HDI của Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới, 2018

(HDI: trên 0,80: Rất cao; 0,700 – 0,800: Cao; 0,550 – 0,700: Trung bình; Dưới 0,555: Thấp)

Đông Nam Á:
Singapore: 0,932 (Rất cao)                               Việt Nam: 0,694 (Trung bình, thứ 116/189)
Malaysia: 0,802 (Rất cao)                                  Philippines: 0,699 (Trung bình).
Thái Lan: 0,755 (Cao)                                         Lào: 0,601 (Trung bình)
Indonesia: 0,694 (Trung bình)                           Campuchia: 0,582 (Trung bình); Myamar: 0,578
Một số quốc gia khác:
Norway: 0,953 (Cao nhất);                                 Mỹ: 0,924 (Rất cao)
Đức: 0,936 (Rất cao)                                           Nhật Bản: 0,909 (Rất cao)                
Hàn Quốc: 0,903 (Rất cao)                                Nga: 0,816 (Cao)                            
Trung Quốc: 0,752 (Cao)                                   Ấn Độ: 0,640 (Trung bình)
Syria: 0,536 (Thấp)                                             Niger: 0,354 (Thấp nhất).
Nguồn: UNDP, cập nhật 14/09/201811.

 
12
15

 

Hình 2: Bản đồ về chỉ số phát triển con người các quốc gia trên thế giới (2017)

Hệ số bình đẳng thu nhập

Thực hiện các nghị quyết của Hội nghị Thượng đỉnh Rio (1992) và Johanesburg (2002) về phát triển bền vững, ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng đã nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội…. Chính phủ cũng đã thành lập Hội đồng Phát triển Bền vững Quốc gia để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục tiêu PTBV đã đề ra.            Muốn bền vững một quốc gia, hoặc một địa phương trong quốc gia, phải tránh được những bất ổn xã hội. Nguyên nhân cơ bản của sự bất ổn này là sự bất công bằng trong phân phối thu nhập. Vì vậy nên Hệ số bất bình đẳng về thu nhập, thường gọi là Hệ số Gini (Gini coefficient), theo tên người đề xuất chỉ số, được xem là một tiêu chí  về tính bền vững xã hội. Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân. Số 0 tượng trưng cho sự bình đẳng thu nhập tuyệt đối, số 1 tượng trưng cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối. Giá trị hệ số Gini càng nhỏ: mức bình đẳng về thu nhập càng cao.
Theo bản đồ các quốc gia theo chỉ số Gini ở hình 3 dưới đây có thể nhận thấy: các nước Bắc Âu, Úc, Nhật Bản, Đức…. (kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển) là các nước có mức độ bình đẳng thu nhập của các hộ gia đình là cao nhất (các nước có màu xanh). Trong khi đó Trung Quốc (xã hội chủ nghĩa), nhiều quốc gia Nam Mỹ, Tây Phi, Nam Phi, Mỹ… (các nước có màu đỏ) và Mỹ có mức bất bình đẳng khá cao về thu nhập. Nhiều nước có GDP/đầu người thấp nhưng có mức thu nhập bất bình đẳng rất cao:  Zimbabwe, Namibia, Botswana, Trung Phi, Columbia: trên 60% (các nước màu đỏ sẫm và nâu đen). Mức độ bất bình đẳng về thu nhập của Việt Nam vào loại trung bình, tương đương Lào, Ấn Độ, Indonesia, Bengladesh, Nga, Kazastan...(các nước màu vàng) nhưng bình đẳng hơn so với Trung Quốc, Philippine, Thái Lan, Campuchia, Malaysia...

 

13

Hình 3: Bản đồ các quốc gia theo mức độ bất bình đẳng thu nhập của các hộ gia đình

Chỉ số về giáo dục và đào tạo
Thường dựa trên những số liệu cụ thể, tỷ lệ người biết chữ trong nhân dân ở một độ tuổi nhất định; tỷ lệ người được học các bậc tiểu học, trung, đại học trong những lứa tuổi nhất định, số sinh viên trên 10.000 dân, trong đó % sinh viên các ngành công nghệ; số học sinh/giáo viên; ngân sách nhà nước chi cho giáo dục bằng tổng % tổng ngân sách, hoặc % tổng GDP.
Chỉ số về dịch vụ xã hội y tế
Các chỉ số này thường được cụ thể hóa bằng: số trẻ sơ sinh bị chết trên 1000 em; tuổi thọ trung bình; số bác sĩ trên 1000 dân; số giường bệnh cho 1000 dân; tỷ lệ % dân hưởng dịch vụ y tế xã hội; tỷ lệ % dân có nước sạch để dùng; tỷ lệ trẻ em dưới 12 tháng được tiêm chủng phòng dịch bệnh; ngân sách nhà nước chi cho dịch vụ xã hội y tế bằng tổng % ngân sách, hoặc tổng GDP.
1.3.3. Đánh giá bền vững về môi trường
Môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên và nhân sinh cùng tồn tại trong một không gian, cùng thời điểm. Môi trường tự nhiên bao gồm môi trường vật lý (thạch quyển: môi trường đất, thủy quyển: môi trường nước, khí quyển: môi trường không khí) và môi trường sinh học.
Đối với từng cá thể con người cũng như cả loài người và thế giới sinh vật, môi trường tự nhiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng do có ba chức năng chính:
-  Môi trường là không gian sinh tồn của con người và sinh vật, bao gồm cả tạo nơi cư trú, phát triển, tạo cảnh quan, lưu trữ, truyền đạt thông tin;
- Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên, kể cả vật liệu, năng lượng, cần thiết cho cuộc sống và hoạt động của con người;
- Môi trường là nơi tiếp nhận, đồng hóa và phân hủy phế thải do con người và sinh vật tạo ra.
Môi trường bền vững là môi trường luôn luôn thay đổi nhưng vẫn làm tròn cả ba chức năng nêu trên.
Bền vững về không gian sống của con người tại một khu vực lãnh thổ nhất định thể hiện ở mật độ dân số thích hợp và mức độ hoạt động của con người không vượt quá khả năng chịu tải của khu vực đó. Môi trường phải đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu, năng lượng cho hoạt động sản xuất, dịch vụ của con người trong hiện tại và tương lai. Môi trường phải đảm bảo duy trì khả năng tiếp nhận ô nhiễm và tự làm sạch sao cho sức khỏe con người, đời sống sinh vật không bị ảnh hưởng xấu. Các nhóm tiêu chí đánh giá độ bền vững về môi trường bao gồm:
- Không gian sống có chất lượng các thành phần môi trường (đất, nước, không khí) phù hợp: được đánh giá qua các tiêu chuẩn chất lượng môi trường (ở nước ta hiện nay được gọi là “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia”  về chất lượng môi trường); có các hệ sinh thái tự nhiên có chất lượng phù hợp điều kiện phát triển các loài sinh vật (được đánh giá qua các tiêu chuẩn về diện tích che phủ của rừng và thảm thực vật; độ ĐDSH).
- Tài nguyên thiên nhiên không bị khai thác đến mức không đủ duy trì cho các thế hệ tương lai: được đánh giá qua các chỉ số về an toàn đối với khai thác các loại tài nguyên.
- Khả năng tiếp nhận, tự làm sạch của môi trường phải đảm bảo tiếp nhận và phân hủy chất thải do hoạt động của con người và tự nhiên phát sinh: được đánh giá qua các chỉ số về khả năng tiếp nhận chất thải; khả năng chịu tải và khả năng xả thải.
1.3.4.  Đánh giá tổng hợp mức độ phát triển bền vững
Nhằm đánh giá tổng hợp mức độ phát triển bền vững cấp quốc gia Ủy ban Phát triển bền vững (CSD) của Liên Hợp Quốc đã lập Bộ chỉ thị phát triển bền vững (Set of Sustainable Development Indicators). Trong các năm 1994-2001 Bộ chỉ thị này gồm 134 chỉ thị (indicators) và 22 quốc gia đã tự nguyện áp dụng bộ chỉ thị này. Năm 2006 Bộ chỉ thị được điều chỉnh còn 50 chỉ thị cốt lõi (core indicators) theo 3 lĩnh vực: xã hội, môi trường và kinh tế, trong đó có lĩnh vực xã hội có 5 chủ đề (Theme) với 15 chỉ thị; lĩnh vực môi trường có 5 chủ đề với 17 chỉ thị và lĩnh vực kinh tế có 4 chủ đề với 16 chỉ thị cốt lõi.
Các chủ đề (Theme) trong lĩnh vực xã hội là (i) Nghèo; (ii) Điều hành (Governance); (iii) Sức khỏe; (iv) Giáo dục; ((v) Dân số. Các chủ đề trong lĩnh vực môi trường là: (i) Nguy hại thiên nhiên (Natural hazard); (ii) Khí quyển; (iii) Đất; (iv) Đại dương, biển, bờ biển; (v) Nước ngọt; (vi) Đa dạng sinh học. Các chủ đề trong lĩnh vực kinh tế là: (i) Phát triển kinh tế; (ii) Đối tác kinh tế toàn cầu; (iii) Tiêu dùng và đối tác sản xuất.
Ở Việt Nam Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999) đã nghiên cứu ban hành Bộ chỉ số quốc gia về phát triển bền vững với 29 chỉ số, trong đó có 4 chỉ số về kinh tế, 15 chỉ số về xã hội và 10 chỉ số về môi trường. Năm 2004, trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Viện Môi trường và Phát triển bền vững cũng đã nghiên cứu lập Bộ Chỉ số quốc gia về phát triển bền vững với 21 chỉ số, trong đó có 4 chỉ số về kinh tế, 8 chỉ số về xã hội, 6 chỉ số về môi trường và 3 chỉ số về thể chế9.
2. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM VÀ CÁC THÁCH THỨC
2.1. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả ban đầu 
2.1.1. Quan điểm phát triển

Quan điểm gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, an sinh xã hội đã được nêu trong các nghị quyết, chỉ thị, chương trình của Đảng và Nhà nước. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong các văn kiện Đại hội Đảng, quan điểm phát triển bền vững luôn được chú trọng hơn. Để chỉ đạo thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Nghị quyết đại hội XII (2016)12 đã đưa ra 1 trong các mục tiêu tổng quát của phát triển là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Nghị quyết cũng nêu các chỉ tiêu quan trọng đảm bảo phát triển bền vững.
2.1.2. Một số kết quả ban đầu
Qua 14 năm thực hiện chiến lược PTBV nước ta đã đạt được một số kết quả khả quan, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo. Có thể nêu một số nét nổi bật qua báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2017; kế hoạch phát triển KT-XH 2018 của Thủ tướng Chính phủ 23/10, tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV vào ngày 23/10/201713.
Về kinh tế
Trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, Chính phủ đã chỉ đạo theo dõi sát, điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng. Giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2017 tăng 3,79%, ước cả năm khoảng 4%, lạm phát cơ bản khoảng 1,6%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký mới, bổ sung và mua cổ phần trong 9 tháng đạt 25,5 tỷ USD, tăng 34,3%; vốn FDI thực hiện đạt kỷ lục 12,5 tỷ USD, tăng 13,4%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm khoảng 33,4% GDP, tăng 12,6%. Tính đến hết tháng 9/2017, xuất khẩu tăng 20%, nhập khẩu tăng 22,7%; xuất siêu 328 triệu USD. Trong 9 tháng có gần 94 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 15,4%. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2017 - 2018 tăng 5 bậc, lên thứ 55/137 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2017 đạt 6,41%, ước cả năm đạt 6,7%. Đạt được kết quả này là nhờ cả 3 khu vực tăng trưởng khá đồng đều: Nông nghiệp tăng 2,78% (gấp hơn 4 lần cùng kỳ), trong đó thủy sản tăng cao 5,42%; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước cả năm đạt 35 tỷ USD. Công nghiệp và xây dựng tăng 7,17%, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 12,8%. Khu vực dịch vụ tăng 7,25%, cao nhất kể từ năm 2008.
Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế tăng 5,87%, tuy cao hơn so với năm 2016 nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của nền kinh tế và cải thiện sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước trong khu vực.
Về văn hóa, xã hội
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng và đạt nhiều kết quả. Quan tâm đào tạo nghề, giải quyết việc làm; trong 9 tháng đầu năm 2017 tạo việc làm cho 1,24 triệu người, tăng 3,48%, trong đó đưa gần 93 nghìn người đi lao động ở nước ngoài. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm có xu hướng giảm dần qua các quý, đến nay còn 2,21%. An sinh xã hội được bảo đảm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm 1 - 1,5%, còn khoảng 6,7 - 7,2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 13,5 triệu, bảo hiểm thất nghiệp đạt 11,4 triệu.
Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam năm 2017 tăng 12 bậc, xếp thứ 47/127 quốc gia, vùng lãnh thổ, cao nhất từ trước đến nay.
Về tài nguyên, môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu
Tăng cường quản lý tài nguyên, đất đai, khoáng sản. Thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.  Quyết liệt xử lý tình trạng khai thác đá, cát sỏi, chặt phá rừng trái phép. Tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; đẩy mạnh trồng rừng. Kiểm soát chặt chẽ việc đánh giá tác động môi trường, kiên quyết dừng chủ trương đầu tư đối với các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm cao. Kiểm tra, xử lý nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về môi trường. Sản xuất kinh doanh, khai thác thủy sản, du lịch, đời sống người dân sau sự cố ô nhiễm môi trường biển ở 4 tỉnh miền Trung đã ổn định và phát triển trở lại; Nhà máy Formosa Hà Tĩnh đi vào hoạt động và được kiểm soát chặt chẽ về môi trường. Tổ chức hội nghị và ban hành Nghị quyết của Chính phủ với nhiều giải pháp cấp bách, chiến lược về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hợp tác quốc tế về khai thác, sử dụng bền vững nguồn nước xuyên quốc gia và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 87%;  tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,45%.
Đánh giá thành tựu 10 tháng đầu năm 2018 trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương VIII vào ngày 06/10/2018 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ:“Dự báo, đến cuối năm 2018, tốc độ tăng trưởng tiếp tục duy trì ở mức cao, đạt 6,6 - 6,8%, quy mô GDP khoảng 240,5 tỷ Đôla Mỹ. Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định. Lạm phát được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng duy trì ở mức dưới 4%. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; bội chi ngân sách ở mức 3,67% GDP; nợ công có xu hướng giảm và ngày càng thấp xa hơn mức trần do Quốc hội quy định. Thị trường tiền tệ ổn định; cán cân thanh toán quốc tế tiếp tục được cải thiện. Xuất khẩu ước đạt 238 tỷ Đôla, tăng 11,2% so với năm 2017; xuất siêu hơn 3 tỷ Đôla. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội được quan tâm đầu tư phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc duy trì ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở cả thành thị và nông thôn được cải thiện rõ rệt. Phong trào xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm xuống còn 5,2 - 5,7%. Sự nghiệp y tế, thể dục, thể thao, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng con người; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển khoa học và công nghệ, phong trào khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo đạt được nhiều kết quả tích cực”14.
2.2. Các thách thức phát triển bền vững của Việt Nam
2.2.1. Đánh giá chung

Mặt dầu trong thời gian qua Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên so với các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển bền vững nêu trên, nước ta vẫn còn là quốc gia còn nhiều hạn chế về tăng trưởng kinh tế gắn kết bảo vệ tài nguyên, môi trường và an sinh xã hội. So với mong ước của dân tộc, so với nhiều quốc gia Đông Nam Á và thế giới mức độ phát triển theo cả 3 nền tảng: kinh tế, xã hội và môi trường của nước ta còn ở mức khá thấp. Trong năm 2017 dù tăng trưởng kinh tế khá cao (6,7%) nhưng GDP/đầu người chỉ đạt 2.354USD (thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp; đứng 133/188 quốc gia, vùng lãnh thổ được thống kê); PPP/đầu người chỉ đạt 7.378 (thứ 124/187 quốc gia, vùng lãnh thổ). Các chỉ số này của nước ta đứng thứ 8/10 quốc gia thành viên chính thức của ASEAN, thấp xa Singapore, Bruney, Malaysia, Thái Lan, thấp hơn Indonesia, Philippines và đã kém Lào. Chỉ số HDI của Việt Nam tuy có cao hơn Lào, Campuchia, Myanmar nhưng chỉ tương đương Indonesia, kém Philippines, kém xa Singapore, Malaysia và Thái Lan. Khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng về thu nhập, hưởng thụ dịch vụ y tế, giáo dục, tiếp cận thông tin giữa các tầng lớp, vùng miền, dân tộc chưa được khắc phục. Tài nguyên thiên nhiên và chất lượng các thành phần môi trường đang bị suy giảm rõ rệt, chưa được cải thiện đáng kể. Như vậy vào thời điểm này chưa thể xem Việt Nam là quốc gia phát triển bền vững.
2.2.2. Thách thức về kinh tế
Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ của Chính phủ và Ngân hàng Thế giới công bố ngày 23/02/201615 nêu rõ: “Hiến pháp năm 1992 và 2013 đã xác định các mục tiêu to lớn và đầy khát vọng trong tương lai của Việt Nam, đó là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các văn kiện của và Chính phủ đặt mục tiêu về tăng trưởng GDP bình quân đầu người 7%/năm (tương đương với tăng trưởng GDP 7-8%/năm đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020) phản ánh khát vọng đó. Tốc độ đó sẽ giúp Việt Nam có cơ hội trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2035 như Malaysia hiện nay và Hàn Quốc vào giữa thập niên đầu của thế kỷ 21. Song mục tiêu này là hết sức tham vọng vì nó vượt xa mức tăng trưởng mà Việt Nam và chỉ có rất ít quốc gia trên thế giới đạt được”.
Bên cạnh những thành quả lớn, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chất lượng tăng trưởng cải thiện còn chậm; năng suất lao động thấp. Một số ngành, lĩnh vực tăng trưởng thấp. Theo dự báo của Bộ KH&ĐT: năm 2018 nhiều khả năng mức nợ công sẽ đạt 3,53 triệu tỷ đồng, tương ứng 63,92% GDP. Trong đó nợ Chính phủ hơn 2,9 triệu tỷ đồng (52,5% GDP); mức bội chi ngân sách năm 2018 là 3,71% GDP. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, môi trường do vậy kinh tế của một số tỉnh, thành bị ảnh hưởng rõ rệt mỗi khi có tai biến thiên nhiên (bão, lũ, xâm nhập mặn…) nghiêm trọng.
2.2.3.  Thách thức về xã hội
Báo cáo Việt Nam 2035 của Chính phủ và Ngân hàng Thế giới15 cho thấy: Việt Nam luôn luôn chú trọng vào công bằng và hòa nhập xã hội. Nước ta là một trong số ít quốc gia đạt được tăng trưởng cao đi đôi với công bằng xã hội. Thành tích đó dựa trên nền tảng bắt đầu từ việc giao đất công bằng hơn vào cuối thập kỷ 1980 đến việc đảm bảo tốt hơn khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như y tế và giáo dục, cũng như đảm bảo công bằng trong phân bổ ngân sách giữa các địa phương có trình độ phát triển khác nhau. Tiếp tục duy trì thành tích tăng trưởng và bảo đảm công bằng xã hội như vậy không phải tự nhiên mà có, nhất là trong bối cảnh có những tác động mới do quá trình đô thị hóa, toàn cầu hóa mang lại và sản xuất đòi hỏi kỹ năng ngày càng cao hơn. Hướng đến năm 2035, Việt Nam phải theo đuổi một chương trình kép bao gồm hai mục tiêu: công bằng và hòa nhập xã hội.
Tuy đã đạt những bước tiến lớn về nâng cao mức sống nhưng một số nhóm đối tượng lớn vẫn bị thiệt thòi và hiện đang có khoảng cách lớn về cơ hội giữa con em các hộ nghèo và con em các gia đình khá giả. Trẻ em dưới một tuổi người dân tộc thiểu số có xác suất tử vong cao gấp bốn lần trẻ em người Kinh. Trên một nửa trẻ em khuyết tật nặng chưa từng đến trường. Tình trạng bất bình đẳng về tiếp cận thông tin, dịch vụ y tế, giáo dục, công nghệ, hòa nhập xã hội giữa nhóm thu nhập thấp với nhóm thu nhập cao ngày càng cao. Trong thập kỷ vừa qua, mặc dù số triệu phú (USD) người Việt Nam đã tăng gấp ba lần nhưng tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số vẫn hầu như không thay đổi.  Phần lớn các triệu phú giàu lên nhờ kinh doanh đất đai, bất động sản hoặc thương mại; rất ít người giàu nhờ phát triển công nghệ cao. Tỷ lệ số hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thoát nghèo chưa bền vững: nhiều hộ vừa thoát nghèo nhưng sau tai biến thiên nhiên hoặc rủi ro trong sản xuất lại trở thành hộ nghèo…
Báo cáo Việt Nam 2035 của Chính phủ và Ngân hàng Thế giới15 cho rằng để giải quyết những bất bình đẳng và chưa công bằng đó đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực, đặc biệt cần thực hiện Chương trình nghị sự đến năm 2035 với 4 nội dung (1) Giảm bớt rào cản, tăng cơ hội cho người dân tộc thiểu số; (2) Tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia đầy đủ về mặt xã hội; (3) Gỡ bỏ sự ràng buộc giữa hệ thống đăng ký hộ khẩu với khả năng tiếp cận dịch vụ công; và (4) Giảm thiểu sự phân biệt về giới15.
Dân số nước ta từ trên 30 triệu người vào năm 1960 đã tăng đến 96,7 triệu người vào năm 2018; vùng có tốc độ gia tăng dân số cực nhanh là Tây Nguyên: năm 1976 chỉ khoảng 1,22 triệu người, năm 2011 lên đến 5,28 triệu người (tăng gần 4,33 lần sau 35 năm). Đây là sức ép rất lớn đến tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, tài nguyên và môi trường cả nước và đặc biệt ở Tây Nguyên.
2.2.4.  Thách thức về môi trường
Báo cáo Việt Nam 2035 của Chính phủ và Ngân hàng Thế giới cho thấy: Sức ép môi trường cũng đe dọa tăng trưởng bền vững trong dài hạn của Việt Nam. Tăng trưởng trong 25 năm qua phần nào có được với cái giá phải trả về môi trường khá lớn. Tài nguyên cạn kiệt nhanh chóng là vấn đề rất đáng quan ngại. Ô nhiễm môi trường từ nước thải công nghiệp và đô thị dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng về sức khỏe tại các địa bàn quanh Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trong tương lai, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, trong đó trên 20 triệu dân (vào năm 2025) và hoạt động kinh tế tại Đồng bằng sông Cửu Long phải chịu rủi ro cao nhất. Rủi ro còn tăng lên do mức tiêu thụ năng lượng gia tăng và dựa nhiều vào nhiệt điện than. Những năm gần đây, mức tăng phát thải khí nhà kính của Việt Nam vào loại cao trên thế giới15.
Theo Báo cáo của Chính phủ (10/2017)13: Tình trạng chặt phá rừng, khai thác cát sỏi trái phép còn xảy ra ở nhiều nơi; quản lý khai thác khoáng sản, tài nguyên nước còn lãng phí, bất cập. Sạt lở bờ sông, ven biển xảy ra nghiêm trọng. Việc giám sát, thực thi pháp luật về môi trường còn nhiều hạn chế; chưa có giải pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng ô nhiễm, xử lý rác thải ở nông thôn, làng nghề, lưu vực sông. Còn xảy ra ngập, úng tại một số thành phố lớn. Thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và đời sống.
Về chi tiết: theo Báo cáo Hiện trạng môi trường Giai đoạn 2011-2015 của Bộ TN&MT16 môi trường nước ta đang đối mặt với các thách thức lớn dưới đây.
Ô nhiễm môi trường
(i) Ô nhiễm các lưu vực sông không giảm: Nhiều lưu vực sông bị ô nhiễm các chất hữu cơ, dầu mỡ, vi sinh rõ rệt. Nguyên nhân chính là do xả thải không qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu của các nguồn nước thải từ các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), các cơ sở sản xuất, nước thải sinh hoạt, dịch vụ ở các đô thị.
(ii) Ô nhiễm không khí gia tăng ở các đô thị: Tại TP Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 tăng 1,07 lần. Tại Hà Nội, nếu không có giải pháp hiệu quả thì nồng độ bụi trong không khí vào năm 2020 có thể gấp 10 lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Theo WHO: Tình trạng chất lượng không khí ở Hà Nội hiện nay sẽ tiếp tục kéo dài trong thời gian tới; thậm chí có khả năng đạt ngưỡng của các thành phố ô nhiễm nhất thế giới như Delhi (Ấn Độ), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Ulaan Baatar (Mông Cổ).
(iii)  Ô nhiễm môi trường do các KCN, CCN đáng quan ngại: Trong tổng số 209 KCN đang hoạt động trong cả nước có 165 KCN đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm 78,9%), 24 KCN đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải (chiếm 11,5%). Nước thải chưa xử lý từ các KCN này vẫn tiếp tục gây ô nhiễm nguồn tiếp nhận. Vẫn còn một tỷ lệ khá lớn chất thải rắn phát sinh từ các KCN, CCN chưa được phân loại và xử lý đúng kỹ thuật, đặc biệt đối với chất thải nguy hại.
(iv) Ô nhiễm môi trường vùng nông nghiệp: Quá trình thâm canh hoá sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục gắn liền với việc tăng cường sử dụng các loại phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật (BVTV). Hiện tại mức sử dụng phân bón hoá học cho một hecta sản xuất nông nghiệp ở nước ta trung bình vào khoảng 120 - 150 kg. Đây là nguồn gây phú dưỡng các sông hồ, kênh rạch. Lượng hoá chất BVTV được sử dụng khoảng 5-10kg/ha trong 1 năm (canh tác một số loài cây ăn quả như xoài ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể dùng đến 15 kg/ha.năm). Đây là nguồn gây tác hại sức khỏe con người và động vật hoang dã.
Sự cố môi trường
Các sự cố môi trường ở nước ta chủ yếu gồm: sự cố đối với các công trình xử lý chất thải (nước thải, khí thải, CTR), sự cố cháy nổ, rò rỉ hóa chất, tràn dầu và một số sự cố khác. Điển hình như vụ cá chết hàng loạt trên sông Bưởi (huyện Thạch Thành, Thanh Hóa) vào tháng 3-4/2016. Đặc biệt nghiêm trọng là sự cố ô nhiễm môi trường biển gây hiện tượng cá chết hàng loạt tại 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế vào tháng 4/2016 do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra.  Sự cố này đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường.
Suy giảm nghiêm trọng các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học
Việt Nam là một trong những nước hàng đầu thế giới về đa dạng các hệ sinh thái, đa dạng về giống loài và đa dạng gen, nhưng ĐDSH ở nước ta đang bị suy giảm nghiêm trọng. Diện tích rừng tăng hàng năm nhưng chủ yếu là rừng trồng ít có giá trị đa dạng sinh học và môi trường. Rừng tự nhiên tiếp tục suy giảm cả về diện tích và chất lượng. Các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô và thảm cỏ biển đã và đang bị tàn phá, tiếp tục đứng trước nguy cơ suy thoái. Số lượng loài bị đe dọa và mức độ đe dọa của các sinh vật hoang dã tiếp tục tăng. Nguồn gen tự nhiên chưa được bảo tồn hợp lý, đặc biệt là các nguồn gen bản địa, quý hiếm.
Úng ngập
Trong những năm gần đây, tình trạng úng ngập tại nhiều đô thị lớn (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ…) không được cải thiện mà còn có xu hướng mở rộng và gia tăng. Nguyên nhân chính là do hệ thống hạ tầng kỹ thuật của nhiều đô thị ngày càng xuống cấp. Cộng thêm những ảnh hưởng của BĐKH, diễn biến bất thường của thiên tai, thời tiết,  triều cường càng khiến cho mức độ úng ngập tại nhiều đô thị càng thêm trầm trọng.
Biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường xuyên biên giới
BĐKH diễn biến nhanh, phức tạp hơn so với dự báo, tác động nhiều mặt lên môi trường nước ta, đồng thời đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp, là nguy cơ hiện hữu cho các mục tiêu xóa đói giảm nghèo cũng như việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và phát triển bền vững. Các vấn đề môi trường xuyên biên giới ngày càng phức tạp, khó lường, đặt ra các yêu cầu ngày càng cao đối với công tác bảo vệ môi trường.
Suy giảm tài nguyên nước
Vấn đề này không được nhấn mạnh trong báo cáo Hiện trạng môi trường 2011-2015 của Bộ TN&MT nhưng là vấn đề môi trường lớn. Do gia tăng khai thác nước phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, sinh hoạt cộng với ảnh hưởng do BĐKH và ô nhiễm môi trường tài nguyên nước mặt, nước dưới đất ở nước ta ngày càng suy giảm. Một số địa phương điển hình là Ninh Thuận, Bình Thuận nhiều tháng trong năm cạn kiệt nguồn nước phục vụ sinh hoạt, nông nghiệp, chăn nuôi. Nhiều vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long bị xâm nhập mặn không đủ nước sinh hoạt và sản xuất vào mùa khô…
3.  ĐỊNH HƯỚNG KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
3.1. Mục tiêu tổng quát cho giai đoạn 2016 -2020
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đặt ra mục tiêu tổng quát: Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.… Trong đó sẽ phấn đấu đạt được một số mục tiêu cụ thể Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được nêu trong Nghị quyết Đại hội XII (2016)12 như sau:
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi NSNN còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%. Năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm…
- Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
- Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.
3.2. Kế hoạch Hành động Quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững
Nhằm thực hiện có hiệu quả Văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững” được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào tháng 9 năm 2015. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 về việc ban hành Kế hoạch Hành động Quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Việt Nam8. Kế hoạch hành động có các nội dung quan trọng dưới đây.
3.2.1.  Quan điểm
1.  Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.
2.  Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân. Huy động mọi nguồn lực xã hội; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp và các bên liên quan nhằm đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
3.  Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước.
4.  Tạo điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Không để ai bị bỏ lại phía sau, tiếp cận những đối tượng khó tiếp cận nhất trước, bao gồm trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người nghèo, người khuyết tật, đồng bào vùng sâu, vùng xa và những đối tượng dễ bị tổn thương khác.
5.  Khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực cho phát triển bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất.
3.2.2.  Các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam
Mục tiêu tổng quát
1.  Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đối với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững.
2.  Thực hiện có hiệu quả 17 mục tiêu về phát triển bền vững đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào tháng 9 năm 2015 trong Văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”:  
-  Mục tiêu 1: Chấm dứt nghèo khổ ở tất cả các dạng của nó ở khắp mọi nơi.
-  Mục tiêu 2: Chấm dứt nạn đói, đạt được an ninh lương thực và cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy nông nghiệp bền vững.
-  Mục tiêu 3: Đảm bảo cuộc sống lành mạnh và tăng cường sức khỏe cho tất cả mọi lứa tuổi.
-  Mục tiêu 4: Đảm bảo giáo dục chất lượng toàn diện và công bằng và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
- Mục tiêu 5:  Đạt được bình đẳng giới và đảm bảo quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái.
-  Mục tiêu 6: Đảm bảo tính sẵn có và quản lý bền vững nguồn nước và vệ sinh cho tất cả mọi người.
- Mục tiêu 7: Đảm bảo quyền tiếp cận các nguồn năng lượng, đáng tin cậy, bền vững và hiện đại cho tất cả mọi người.
-  Mục tiêu 8: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, bao gồm việc làm đầy đủ và hiệu quả và làm việc tốt cho tất cả mọi người.
-  Mục tiêu 9: Xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy công nghiệp hóa toàn diện và bền vững và thúc đẩy đổi mới
-  Mục tiêu 10: Giảm bất bình đẳng trong và giữa các quốc gia
-  Mục tiêu 11:  Làm cho các thành phố và khu định cư của con người an toàn và bền vững
-  Mục tiêu 12:  Đảm bảo tiêu thụ bền vững và sản xuất có trách nhiệm
-  Mục tiêu 13: Thực hiện hành động khẩn cấp để chống lại biến đổi khí hậu và các tác động của nó
-  Mục tiêu 14: Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển để phát triển bền vững
-  Mục tiêu 15:  Bảo vệ, khôi phục và thúc đẩy sử dụng bền vững các hệ sinh thái trên cạn, quản lý rừng bền vững, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái đất và ngăn chặn mất đa dạng sinh học
-  Mục tiêu 16: Thúc đẩy các xã hội hòa bình và hòa nhập để phát triển bền vững, cung cấp quyền tiếp cận công lý cho tất cả và xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm ở tất cả các cấp.
-  Mục tiêu 17: Tăng cường các phương tiện thực hiện và phát triển quan hệ đối tác toàn cầu để phát triển bền vững
Các mục tiêu cụ thể
Các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam bao gồm 115 mục tiêu cụ thể, tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu theo Văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”.
3.2.3.  Các nhiệm vụ chủ yếu và phân kỳ thực hiện
Các nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn 2017 – 2020
1.  Hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững; tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách theo hướng điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo khung pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện Kế hoạch hành động và các mục tiêu phát triển bền vững; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển bền vững quốc gia.
2.  Muộn nhất trong năm 2018 hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch hành động của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức; xây dựng các chương trình, đề án, nhiệm vụ cụ thể để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030.
3.  Thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về các mục tiêu phát triển bền vững và Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Từng bước đưa nội dung giáo dục phát triển bền vững, các mục tiêu phát triển bền vững vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp.
4. Xây dựng và ban hành chỉ tiêu và lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030. Xây dựng và ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững, cơ chế thu thập thông tin dữ liệu phục vụ giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam….
5.  Lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, các chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan. Đến năm 2020, lồng ghép đầy đủ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam vào nội dung Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2025, các quy hoạch phát triển của ngành và địa phương giai đoạn 2021 - 2030.
6.  Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước theo các mục tiêu phát triển bền vững ở mọi lĩnh vực, chú trọng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, hoạch định chính sách.
7.  Giám sát, đánh giá, báo cáo thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Các nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn 2021 – 2030
1.  Triển khai toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp của Kế hoạch hành động để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030.
2.  Tăng cường huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tập trung nguồn lực nhằm giải quyết những vướng mắc, các lĩnh vực gặp khó khăn trong quá trình thực hiện Kế hoạch hành động.
3.  Hoàn thiện xây dựng cơ sở dữ liệu các mục tiêu phát triển bền vững, cơ chế thu thập thông tin dữ liệu phục vụ giám sát, đánh giá các mục tiêu phát triển bền vững.
4.  Tiếp tục phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước theo các mục tiêu phát triển bền vững,…
5.  Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Chú trọng phát triển công nghệ môi trường, công nghệ sạch, công nghệ năng lượng mới.
6.   Tiếp tục triển khai hiệu quả công tác giám sát, đánh giá, báo cáo tiến độ thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Đến năm 2030, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững kết hợp với đánh giá kết quả thực hiện Báo cáo Việt Nam 2035 và chuẩn bị xây dựng các mục tiêu phát triển bền vững cho thời kỳ tiếp theo.
3.2.4.  Giải pháp thực hiện
1.  Nâng cao nhận thức và hành động của toàn xã hội về phát triển bền vững và các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
2.  Huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể xã hội, cộng đồng dân cư, các đối tác phát triển trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
3.  Tăng cường và huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia.
4.  Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành, sự phối hợp giữa các cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp, các tổ chức chính trị, xã hội, các hiệp hội ngành nghề, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và sự phối hợp giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa phương trong triển khai thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững để bảo đảm tính tích hợp và lồng ghép của các mục tiêu.
5.  Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh công khai, minh bạch trong sử dụng ngân sách nhà nước, trong phân bổ nguồn lực.
6.  Tăng cường hợp tác quốc tế trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn hỗ trợ của quốc tế cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Quyết định số 622/QĐ-TTg cũng nêu rõ về  tổ chức và phân công trách nhiệm thực hiện các mục tiêu cụ thể trong Kế hoạch hành động.

KẾT LUẬN
Trên toàn cầu: hậu quả của tăng trưởng nhanh về kinh tế, dân số, tiêu dùng, khai thác tài nguyên không kiểm soát dẫn đến suy thoái môi trường, các hệ sinh thái tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, tác hại sức khỏe cộng đồng và an sinh xã hội. Vì vậy nhân loại đã chọn con đường phát triển đúng đắn nhất: phát triển bền vững. Ở nước ta phát triển bền vững đã được tiếp nhận như là định hướng chiến lược quan trọng trong phát triển KT-XH trong hiện tại và tương lai.
Trong nhiều năm qua nước ta đã đạt nhiều thành tựu lớn trong phát triển KT-XH: tăng trưởng GDP liên tục nhiều năm ở mức khá cao, kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội ngày càng tiến bộ. Tuy nhiên nước ta đang đối mặt nhiều thách thức về phát triển bền vững: nền kinh tế chưa vững mạnh; các chỉ số GDP/đầu người và HDI còn thấp so với nhiều quốc gia khu vực Đông Nam Á và thế giới; tài nguyên và môi trường ngày càng suy thoái; bất bình đẳng về xã hội ngày càng gia tăng; định hướng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vẫn còn là mục tiêu lâu dài. Để từng bước vượt qua các thách thức này chúng ta cần thực hiện có hiệu quả cao các chiến lược phát triển quốc gia đến năm 2030, trong đó có “Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Việt Nam” được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. UNESCO, 2009, World Water Assessment Programme.
2. World Wildlife Federation (WWF), 2015 (từ: Megan Ray Nichols, 2017, Schooled By Science, 13 Jan.)
3. Max Roser, 2015, Fertilizer and Pesticide Production, Our World in Data.
4. The United Nations, 2018, World Water Development Report.
5. Lê Thạc Cán, 2013, Phát triển bền vững: Thách thức và hy vọng đối với nước ta, Tuyển tập các công trình khoa học 1995-2012, Viện Môi trường và Phát triển bền vững, NXB KH&KT.
6. WCED, 1987, Report of the World Commission on Environment and Development: Our Common Future.
7. United Nations, 2015, Transforming our World: the 2030 Agenda for Sustainable Development.
8. Thủ tướng Chính phủ, 2017, Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch Hành động Quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Việt Nam.
9. Lê Trình, Lê Thạc Cán, 2004, Báo cáo Đề tài: Nghiên cứu xây dựng Bộ Tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia, Liên hiệp các Hội KH&KT
10. International Money Fund, 2018, List of Countries Per GDP (Nominal)/capita and PPP/capita.
11. UNDP, 2018, Human Developement Indices and Indicators, 2018 Statistical Update, 14 Sep.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Nghị quyết Đại hội XII.
13. Chính phủ, 2017, Cổng TTĐT Chính phủ 24/10.
14. Nguyễn Phú Trọng, 2018, Bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương VIII, ngày 06/10.
15. Chính phủ Việt Nam – Ngân hàng Thế giới, 2016, Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ, 23/02.
16. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016, Báo cáo Hiện trạng môi trường Việt Nam Giai đoạn 2011 – 2015.

Tác giả: VESDEC

Nguồn tin: Lê Trình

hành chính công trực tuyến
công khai minh bach
bản đồ covid
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 Seconds